KHỦNG LONG MỚI THÁNG 1-3 NĂM 2024

[Mê Khủng Long TV] Hãy cùng gặp gỡ 13 loài khủng long mới được công bố trong quý I của năm 2024.

>> Xem thêm: CẬP NHẬT KHỦNG LONG MỚI

1. SIDERSAURA MARAE

Chúng ta mở đầu năm mới 2024 bằng một loài khủng long có cái tên rất hay và nữ tính, Sidersaura marae. Sidersaura bắt nguồn từ tiếng Latin "sideris", có nghĩa là "ngôi sao" và "saura" là giống cái của "saurus". Tên loài marae dùng để vinh danh người xử lý hóa thạch Mara Ripoli. Sở dĩ có cái tên này là bởi các mấu xương phía dưới đốt sống đuôi của loài khủng long này có hình giống ngôi sao. 

Phục dựng ngoại hình Sidersaura marae. Nguồn: Gabriel Diaz Yantén / Sci.News.

Sidersaura marae là một loài có kích thước lớn thuộc họ Rebbachisauridae (có thể thuộc top lớn nhất của họ này), ước tính dài đến 18-20m và nặng khoảng 15 tấn. Hóa thạch của nó được tìm thấy tại Hệ tầng Huincul ở Argentina, và cùng hệ tầng với Sidersaura còn các Rebbachisauridae khác như Cathartesaura, Limaysaurus; các khủng long hộ pháp như Argentinosaurus, Bustingorrytitan, Chucarosaurus, Choconsaurus; các dị long răng cá mập như Mapusaurus, Meraxes, Taurovenator...

2. TYRANNOSAURUS MCRAEENSIS

Đã từ lâu, chúng ta từng đặt câu hỏi về một loài khủng long bạo chúa thứ hai và có lẽ câu trả lời đã đến vào đầu năm nay. 

Phục dựng ngoại hình Tyrannosaurus mcraeensis. Nguồn: Sergei Krasovskiy / Sci.News.

Trong một nghiên cứu gồm nhiều nhà cổ sinh vật học hàng đầu hiện nay, họ đã công bố hóa thạch một hộp sọ không nguyên vẹn được tìm thấy ở vùng Đông Nam bang New Mexico, Mỹ, từ lớp đá thuộc Hệ tầng Hall Lake. Vốn chiếc hộp sọ này được cho là của một cá thể T. rex trước đây, nhưng trong nghiên cứu mới các nhà cổ sinh vật học đã khẳng định đây là những gì còn lại của một loài khác thuộc chi Tyrannosaurus, và họ đặt danh pháp cho nó là Tyrannosaurus mcraeensis, theo địa danh Fort McRae ở bang New Mexico.

Tyrannosaurus mcraeensis được xác định qua những đặc điểm phát sinh loài khá tinh tế, chẳng hạn như hàm dưới của loài này nông hơn và cong hơn về phía sau, mấu sừng phía trên mắt thấp hơn nếu so với T. rex. Ngoài ra, chúng đến từ lớp đá có niên đại cổ hơn của T. rex khoảng 4-6 triệu năm. Mặc dù vậy vẫn có một số tiếng nói nghi ngờ đối với loài khủng long bạo chúa thứ hai này.

3. GANDITITAN CAVOCAUDATUS

Argentina gọi, Mỹ gọi thì Trung Quốc cũng lên tiếng trả lời. Loài thứ ba của năm 2024 là Gandititan cavocaudatus, một chi khủng long hộ pháp (Titanosauria) có kích thước trung bình, dài khoảng 14m đến từ Hệ tầng Châu Điền, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.

Phục dựng ngoại hình Gandititan cavocaudatus. Nguồn: Zhao Chuang.

"Gandi" trong tên chi có nghĩa là "Cám địa", liên quan đến vùng đất Cám Châu nơi hóa thạch được tìm thấy, còn titan lấy từ các vị thần hộ pháp trong thần thoại Hy Lạp. Tên loài cavocaudatus có nghĩa là "đuôi có hốc", ám chỉ những cái hốc nằm trong đốt sống đuôi của con khủng long này. Nó thuộc nhóm khủng long hộ pháp Titanosauria và có họ hàng gần với những Titanosauria gốc ở Đông Á và Nam Mỹ.

4. EONEOPHRON INFERNALIS

Trong nghiên cứu về khủng long không thiếu những phát hiện kiểu "hổng ngờ luôn á" và Eoneophron infernalis là một trường hợp điển hình. Vào năm 2020, một học viên cao học tại Mỹ tên là Kyle Atkins-Weltman đã mua bốn hóa thạch trên mạng cho một dự án của lớp với giá 5.000 đô-la, và ban đầu anh nghĩ rằng chúng thuộc về một loài khủng long đã biết là Anzu wyliei. 

Phục dựng ngoại hình Eoneophron infernalis. Nguồn: Hodari Nundu.

Tuy nhiên, khi xem xét kỹ, anh nhận thấy những hóa thạch đến từ một loài chưa biết, tuy có họ hàng với Anzu nhưng là những loài khác nhau. Sau khi nghiên cứu thì Kyle xác định đây là một loài mới, đặt danh pháp cho nó là Eoneophron infernalis, có nghĩa là "thần kê bình minh của Pharaoh đến từ địa ngục". Nó cùng Anzu thuộc họ Caenagnathidae, gồm những loài khủng long từ nhỏ đến trung bình có ngoại hình giống đà điểu đầu mào. Anzu to hơn và nặng hơn, khoảng 200-300kg còn Eoneophron thì nhỏ hơn, chỉ khoảng 78kg. Tuy nhiên, Eoneophron có thể chạy nhanh hơn nhờ sự hợp nhất giữa xương cựa, xương gót và xương chày, giúp nó chịu áp lực tốt hơn khi chạy.

5. YANBEILONG ULTIMUS

Kiếm long là một nhóm khủng long nổi bật của Kỷ Jura, nhưng chúng dần biến mất khi bước sang Kỷ Phấn Trắng và Yanbeilong ultimus, loài kiếm long được tìm thấy tại Hệ tầng Tả Vân, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc là một trong những kiếm long hiếm hoi tồn tại đến đầu Kỷ Phấn Trắng. 

Phục dựng ngoại hình Yanbeilong ultimus. Nguồn: Ddinodan / Sci.News.

Mẫu định danh là một bộ xương không hoàn chỉnh, được khai quật tại làng Mã Đạo Đầu, huyện Tả Vân thuộc Thành phố Đại Đồng. Những gì còn lại bao gồm xương cùng, xương chậu, xương ngồi bên trái, xương mu bên phải, bảy đốt sống lưng và một đốt sống đuôi.

Tên chi Yanbeilong có nghĩa là "rồng Nhạn Bắc", đề cập đến địa điểm khai quật nằm ở phía Bắc Nhạn Môn Quan. Tên loài ultimus có nghĩa là "cuối cùng" trong tiếng Latin, ý muốn nhắc đến việc Yanbeilong có thể là một trong những thành viên cuối cùng của dòng dõi kiếm long.

6. MINQARIA BATA

Có thể nói trong vòng vài năm trở lại đây, Morocco đã trở thành điểm sáng cổ sinh với nhiều phát hiện thú vị và trong năm 2024, chúng ta có Minqaria bata, một loài khủng long mới thuộc họ khủng long mỏ vịt Hadrosauridae, với hóa thạch gồm các mảnh xương sọ không nguyên vẹn được tìm thấy tại bồn địa Ouled Abdoun, Morocco. Chúng có niên đại Phấn Trắng muộn, tức khoảng 68-66 triệu năm trước.

Phục dựng ngoại hình Minqaria bata. Nguồn: Raul Martin.

Minqaria có kích thước trung bình, chỉ dài khoảng 3,5m. Danh pháp hai phần của con khủng long này được lấy hoàn toàn từ tiếng Ả Rập (ngôn ngữ chính thức của Morocco), trong đó tên chi Minqaria có nghĩa là "mỏ sừng" còn bata có nghĩa là "vịt".

Điều đặc biệt là hóa thạch của Minqaria là được phát hiện trong môi trường trầm tích đại dương, nơi hóa thạch của các động vật biển như cá, cá mập, thương long và bò sát biển khác chiếm ưu thế. 

7. RIOJAVENATRIX LACUSTRIS

Sau Protathlitis vào năm ngoái thì Tây Ban Nha tiếp tục cho thấy nước này vào Thời đại Khủng long là thiên đường của các loài đại long xương gai, với phát hiện mới mang tên Riojavenatrix lacustris. Tên chi Riojavenatrix có nghĩa là "thợ săn Rioja", theo tên của tỉnh La Rioja. Tên loài lacustris có nghĩa là "đến từ hồ".

Phục dựng ngoại hình Riojavenatrix lacustris. Nguồn: Adrien Blazquez Riola.

Mẫu định danh của Riojavenatrix bao gồm một đốt sống lưng không nguyên vẹn, đai chậu và các thành phần của chi sau. Nhóm nghiên cứu xếp Riojavenatrix vào phân họ Baryonychinae, cũng là chi có niên đại muộn nhất thuộc phân họ này và là loài đại long xuơng gai thứ năm được tìm thấy trên bán đảo Iberia.

8. JINGIA DONGXINGENSIS

Một loài khủng long mới được đặt tên theo cộng đồng người Kinh ở Trung Quốc, đó chính là Jingia dongxingensis. Tên chi bắt nguồn từ chữ Kinh theo âm tiếng Trung, tức "Jing" và tên chi đề cập đến địa danh Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, nơi phát hiện hóa thạch và cũng có đông người Kinh sinh sống. 

Jingia dongxingensis là một loài khủng long mới thuộc họ Mamenchisauridae, gồm những loài sauropod có cái cổ siêu dài.

Mẫu định danh của Jingia bao gồm các đốt sống không hoàn chỉnh ở lưng, xương cùng, đuôi; hai xương khuỷu tay và xương đùi bên phải. Hóa thạch được khai quật từ Hệ tầng Đông Hưng và được xác định có niên đại Jura muộn (161-145 triệu năm trước). Trong phân tích phát sinh loài, các tác giả của nghiên cứu mô tả J. dongxingensis xác định loài này là một thành viên phân hóa muộn của họ Mamenchisauridae.

9. DATAI YINGLIANGIS

Đây là một loài giáp long đuôi chùy có niên đại Phấn Trắng muộn, với hóa thạch được khai quật từ những lớp đá thuộc Hệ tầng Châu Điền, tỉnh Giang Tây. 

Phục dựng ngoại hình Datai yingliangis. Nguồn: Kaitlin T. Lindblad.

Loài mới này có danh pháp khoa học là Datai yingliangis, trong đó tên chi Datai được ghép từ các chữ cuối trong hai cụm từ tiếng Trung là "thông đạt" và "an thái", còn tên loài yingliangis là để ghi nhận đóng góp của Tập đoàn Anh Lương (Yingliang Group) vì đã có công tham gia khai quật và lưu giữ hóa thạch. 

Điều độc đáo ở phát hiện này đó là một hóa thạch đôi, gồm bộ xương không hoàn chỉnh của hai con khủng long vị thành niên có lứa tuổi không đồng nhất, con này nằm gối lên đầu con kia. Một điểm đặc trưng có thể thấy khá rõ trên hộp sọ của D. yingliangis là hai cái sừng nhỏ ở trên má.

10. HESPERONYX MARTINHOTOMASORUM

Loài khủng long có cái tên đọc muốn lẹo lưỡi này là loài mới thuộc nhóm khủng long chân chim, hay cụ thể hơn là một thành viên của nhóm Iguanodontia. 

Phục dựng ngoại hình Hesperonyx matinhotomasorum. Nguồn: Victor Carvalho.

H. martinhotomasorum được xác định từ hóa thạch một cái chân gần như hoàn chỉnh, được khai quật vào năm 2021 từ một vỉa đá nằm trên bờ biển Porto Dinheiro, thuộc Hệ tầng Lourinhã, có niên đại 150 triệu năm trước.

Tên chi Hesperonyx có nghĩa là "móng vuốt phương Tây", ý chỉ việc nó được tìm thấy ở khu vực phía Tây Bồ Đào Nha. Tên loài martinhotomasorum được ghép từ họ của Micael Martinho và Carla Alexandra Tomás, hai chuyên gia về hóa thạch của Bảo tàng Lourinhã vì những nỗ lực cống hiến của họ cho ngành cổ sinh vật học Bồ Đào Nha.

11. CHAKISAURUS NEKUL

Chakisaurus nekul là loài khủng long chân chim cỡ trung bình. Hóa thạch được tìm thấy trong Hệ tầng Huincul, Argentina, bao gồm các xương không nguyên vẹn như đốt sống lưng, xương cùng, vòm mạch máu mười hai đốt sống đuôi, xương đùi và xương mác chân trái, xương chày và xương cựa chân phải, hai xương ngón chân.

Phục dựng ngoại hình Chakisaurus nekul. Nguồn: PaleoHistoric / Deviant Art.

Tên chi Chakisaurus kết hợp giữa "Chaki", một từ trong tiếng Aonikenk có nghĩa là "lạc đà cụ", và "saurus" có nghĩa là "thằn lằn/khủng long". Tên loài nekul có nghĩa là "nhanh" trong thổ ngữ Mapudungun.

Phân tích phát sinh loài của nhóm nghiên cứu đặt C. nekul vào nhóm Elasmaria, một nhóm khủng long chân chim được tìm thấy trong các lớp trầm tích Kỷ Phấn Trắng tại Nam Mỹ, Nam cực, Úc. Hầu hết đều di chuyển bằng hai chân, trừ một số di chuyển bằng bốn chân nhiều hơn.

12. UDELARTITAN CELESTE

Udelartitan là một chi khủng long hộ pháp (Titanosauria) thuộc siêu họ Saltasauroidea vừa được công bố từ những hóa thạch khai quật tại Uruguay. Hóa thạch của Udelartitan được tìm thấy vào năm 2006 trong trầm tích của Hệ tầng Guichón, thuộc tỉnh Paysandú của Uruguay. 

Phục dựng ngoại hình Udelartitan celeste. Nguồn: Luis Arellano.

Tên chi có chữ "UdelaR", vốn là cách viết tắt của trường đại học nơi cất giữ các hóa thạch của loài khủng long mới này; còn "titan" có nghĩa là "người khổng lồ. Tên loài celeste có nghĩa là "bầu trời xanh", dùng để chỉ màu cờ cũng như màu áo của các đội tuyển thể thao Uruguay. Ước tính loài khủng long này có chiều dài 15-16m.

13. THYREOSAURUS ATLASICUS

Đây là một loài kiếm long mới rất độc đáo có niên đại Jura giữa được khai quật từ Morocco. "Thyreo" trong tên chi có nghĩa là "khiên chắn" trong tiếng Hy Lạp, còn tên loài "atlasicus" dùng để chỉ dãy núi Atlas tại Morocco. 

Phục dựng ngoại hình Thyreosaurus atlasicus. Nguồn: Masato Hattori.

Dù là kiếm long, nhưng nó sở hữu bộ giáp da độc đáo có thể so sánh với các loài giáp long xương kết (Nodosauridae), bao gồm các tấm phiến được đặt đối xứng và nằm nghiêng thay vì dựng thẳng đứng như các loài kiếm long khác.

Phân tích phát sinh loài cho thấy Thyreosaurus là một thành viên thuộc phân họ Dacentrurinae trong họ Stegosauridae.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét