LOÀI KHỦNG LONG MỚI ĐƯỢC ĐẶT TÊN THEO NHẠC SĨ/CA SĨ METAL

Trong những lý do để đặt tên khủng long, bạn đã từng nghe lý do nào đặc biệt kiểu lấy tên của nhóm nhạc mà các nhà nghiên cứu thường hay nghe trong lúc nghiên cứu con khủng long đó hay chưa?

Phục dựng ngoại hình của Athenar bermani. Tranh của Connor Ashbridge.

Vậy thì hãy gặp Athenar, chi khủng long chân thằn lằn mới thuộc họ Dicraeosauridae được xác định từ mẫu vật có niên đại Jura muộn, khai quật từ bang Utah, Mỹ. Chi này hiện chỉ có một loài duy nhất là Athenar bermani.

Mẫu định danh của Athenar, ký số CM 26552, đã được tìm thấy hơn một thế kỷ trước vào năm 1913 do công của nhà cổ sinh vật học người Mỹ Earl Douglass. Phải đến năm 1978, mẫu vật này mới được mô tả sơ bộ và khi ấy, các nhà nghiên cứu gồm John McIntosh và David Berman xem nó là một mẫu vật thuộc chi Diplodocus, dựa trên những nét tương đồng về hộp sọ. 

Đến năm 2025, một nhóm nghiên cứu khác gồm John Whitlock cùng các cộng sự cảm thấy có gì đó sai sai và quyết định xem xét lại CM 26552. Họ mô tả hộp sọ chi tiết hơn và áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu mới mà vào thập niên 1970 chưa xuất hiện. Từ kết quả của mình, Whitlock cùng các cộng sự xác định mẫu vật này thuộc về một loài khủng long chân thằn lằn chưa hề được biết đến, thuộc Họ Dicraeosauridae.

Họ quyết định đặt cho nó danh pháp Athenar bermani, trong đó tên chi Athenar được đặt theo nhạc sĩ/ca sĩ metal Athenar của nhóm Midnight, tác giả của những bài nhạc nền mà nhóm nghiên cứu đã nghe trong phần lớn thời gian tìm hiểu mẫu vật. Tên loài bermani nhằm tôn vinh David Berman, người cùng với McIntosh đã thực hiện nhiều nghiên cứu nền tảng hiện đại về hộp sọ của các loài trong Liên họ Lương long (Diplodocoidae) tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Carnegie và là người đầu tiên mô tả mẫu vật định danh.

Hộp sọ không nguyên vẹn của mẫu định danh.

Mẫu vật định danh và duy nhất của Athenar bao gồm một hộp sọ và phần mái sọ chưa hoàn chỉnh, chứa các phần của xương trán bên phải và bên trái, cả hai xương đỉnh, một phần xương sau hốc mắt và các phần của xương vảy. Một đoạn xa của mỏm paraoccipital bên phải và một phần của xương vảy bên phải được tìm thấy cùng với mẫu vật và sau đó được gắn lại bằng thạch cao, tuy nhiên phần này đã bị gãy và không thể nối lại các mảnh với nhau.

Mặc dù mẫu vật định danh có kích thước khá lớn, Whitlock và các cộng sự cho rằng nó thuộc về một cá thể “chưa hoàn toàn trưởng thành” do sự hiện diện của các đường nối giữa nhiều thành phần của hộp sọ.

Athenar được tìm thấy trong Thành hệ Morrison thuộc Thế Jura muộn, một chuỗi đá trầm tích có các lớp đá lộ ra trên khắp miền tây Hoa Kỳ và nổi tiếng với hệ động vật khủng long phong phú. Phân tích niên đại phóng xạ cho thấy hệ tầng này có tuổi khoảng 156,3 triệu năm ở phần đáy và lên đến 146,8 triệu năm ở phần trên, tương ứng với các thời kỳ Oxford muộn, Kimmeridgian và đầu Tithonian của kỷ Jura muộn. Hệ tầng Morrison có niên đại và thành phần động vật tương đương với hệ tầng Lourinhã ở Bồ Đào Nha và hệ tầng Tendaguru ở Tanzania.

Mẫu định danh của Athenar được phát hiện tại mỏ khai quật Carnegie, nằm trong Khu tưởng niệm Quốc gia Khủng long ở bang Utah. Các loài động vật từng sống cùng thời với nó bao gồm các loài khủng long ăn thực vật thuộc nhóm Ornithischia như Stegosaurus, DryosaurusCamptosaurus; các loài khủng long ăn thịt thuộc nhóm Theropoda như AllosaurusCeratosaurus; cùng nhiều loài khủng long cổ dài như Diplodocus, Apatosaurus, Barosaurus Camarasaurus.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét