LOÀI DỰC LONG MỚI ĐƯỢC TÌM THẤY TRONG BÃI NÔN HÓA THẠCH (CÓ THỂ LÀ) CỦA KHỦNG LONG

Trên tạp chí Scientific Reports, các nhà cổ sinh vật học Brazil đã xác nhận sự tồn tại của một loài dực long mới, được phát hiện trong một mẫu vật đặc biệt: hóa thạch chất nôn của khủng long, còn gọi là “regurgitalite”. Mẫu vật này đã được lưu trữ trong nhiều năm tại Bảo tàng Câmara Cascudo (MCC), thuộc Đại học Liên bang Rio Grande do Norte (UFRN), Brazil, nhưng trước đây chưa được chú ý đúng mức.

Phục dựng ngoại hình của Barikibu waridza và một loài đại long xương gai sống cùng môi trường. Tranh của Julio Lacerda.

Mẫu hóa thạch bao gồm phần xương gãy của ít nhất hai cá thể dực long cùng với bốn con cá, được xác định là dấu tích của chất nôn hóa thạch. Các nhà nghiên cứu cho rằng xương bị gãy là do quá trình tiêu hóa cơ học khi bị kẻ săn mồi nuốt vào. Việc không tìm thấy mô mềm đi kèm phù hợp với đặc điểm của regurgitalite, vốn thường chỉ bảo tồn các phần cứng do mô mềm dễ bị tiêu hóa và phân hủy sau khi chôn vùi.

Loài mới được đặt tên là Bakiribu waridza, thuộc Họ Ctenochasmatidae, một họ thằn lằn bay chuyên ăn lọc (filter feeder), đặc trưng bởi mõm dài và nhiều răng nhỏ. Phân tích phát sinh chủng loại và mô học răng, xương cho thấy Bakiribu có quan hệ gần với Pterodaustro, một chi dực long lọc ăn khác, nhưng có sự khác biệt về cấu trúc răng và hàm. Bakiribu được xác định là mắt xích trung gian giữa Ctenochasma và Pterodaustro, giúp lấp đầy khoảng trống tiến hóa trong Phân họ Ctenochasmatinae.

Phát hiện này đặc biệt quan trọng vì trước đây chưa từng ghi nhận loài dực long lọc ăn nào trong Loạt Santana, thuộc Lưu vực Araripe ở Đông Bắc Brazil, một địa điểm hóa thạch nổi tiếng có niên đại Kỷ Phấn Trắng. Khu vực này đã cung cấp nhiều mẫu vật dực long, nhưng Bakiribu là chi đầu tiên có đặc điểm ăn lọc được xác nhận.

Hóa thạch của Barikibu waridza.

Ngoài ra, nghiên cứu còn cung cấp bằng chứng về mối quan hệ giữa các loài trong chuỗi thức ăn cđại. Việc tìm thấy xương dực long trong regurgitalite cho thấy chúng có thể từng là con mồi của các loài khủng long lớn hơn. Dù chưa xác định được chính xác loài săn mồi, các nhà nghiên cứu cho rằng khủng long thuộc Họ Spinosauridae (Đại long xương gai) hoặc thằn lằn bay thuộc nhóm Ornithocheiriform có khả năng là thủ phạm, dựa trên đặc điểm ăn cá và sự hiện diện của chúng trong hệ sinh thái của Hệ tầng Romualdo.

Một bằng chứng hỗ trợ giả thuyết này là việc từng phát hiện răng của một loài đại long xương gai cắm trong đốt sống cổ của một thằn lằn bay Ornithocheiriform tại cùng khu vực. Điều này củng cố giả thuyết rằng các đại long xương gai từng săn bắt hoặc ăn thịt thằn lằn bay.

Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét lại các mẫu vật cũ trong bảo tàng, những mẫu vật có thđã bị bỏ qua, nhằm phát hiện ra những thông tin sinh học và tiến hóa quan trọng. Phát hiện về Bakiribu waridza không chỉ mở rộng hiểu biết về sự đa dạng của thằn lằn bay mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa các loài trong hệ sinh thái cđại.

Ngun: Krystal Kasal, "New pterosaur species discovered in previously overlooked specimen of dinosaur regurgitalite" / Phys.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét