KHỦNG LONG MỚI THÁNG 1-3 NĂM 2025

[Mê Khủng LongTừ tháng 1 đến tháng 3 năm 2025, các nhà cổ sinh vật học đã khám phá được những loài khủng long mới nào?

Phục dựng ngoại hình của Tameryraptor markgrafi. Tranh của Joschua Knuppe.

1. AHVAYTUM BAHNDOOIVECHE

Đây là một loài khủng long có niên đại rất cổ, khoảng 230 triệu năm trước (tức Thế Tam Điệp muộn), với hóa thạch được tìm thấy trong các lớp trầm tích của Hệ tầng Popo Agie, bang Wyoming, Mỹ. Hóa thạch mẫu định danh của nó chỉ là một mảnh xương chi sau, cụ thể là xương sên (astragalus) bên trái. Ngoài ra còn một mẫu vật khác là một xương đùi trái không nguyên vẹn.

Danh pháp hai phần Ahvaytum bahndooiveche bắt nguồn từ ngôn ngữ của thổ dân Shoshone, trong đó tên chi Ahvaytum có nghĩa là "xa xưa", còn tên loài bahndooiveche có nghĩa là kỳ giông, nhưng cũng là từ mà người Shoshone dùng để gọi "khủng long".

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Theo nhóm nghiên cứu, Ahvaytum là chi khủng long cổ nhất được tìm thấy từ Laurasia, phần phía Bắc của Toàn lục địa Pangaea. Điều này góp phần làm lung lay giả thuyết cho rằng khủng long khởi đầu từ phần phía Nam của Pangaea (tức Gondwana) rồi sau này mới mở rộng địa bàn lên phía Bắc, bởi niên đại của Ahvaytum cũng gần tương đương với các khủng long sớm nhất được biết hiện nay từ Gondwana.

2. TAMERYRAPTOR MARKGRAFI

Đôi khi không cần phải đào được hóa thạch mới thì chúng ta mới xác định được những loài khủng long mới. Từ những tấm hình chụp lại mẫu vật được cho là mẫu định danh của chi khủng long răng cá mập nổi tiếng Carcharodontosaurus, vốn đã bị phá hủy trong Thế chiến thứ Hai, nhóm nghiên cứu của nhà cổ sinh vật học người Đức Maximilian Kellermann cho rằng chúng có thể thuộc về một loài khủng long hoàn toàn khác biệt, so với những mẫu vật Carcharodontosaurus được khai quật gần đây hơn ở Morocco, chẳng hạn như sự phát triển của hố trước mắt trên xương mũi, sự hiện diện của một mấu xương giống như sừng trên xương mũi, bề mặt tiếp xúc của xương tuyến lệ trên xương trán không được mở rộng, và phần đại não tương đối lớn.

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Kellerman và các cộng sự xác định đây là một loài khủng long ăn thịt hoàn toàn khác, chưa từng được biết đến trước đây và đặt tên nó là Tameryraptor markgrafi, trong đó tên chi Tameryraptor bắt nguồn từ một cái tên khác của Ai Cập thời cổ đại là Tamery, còn tên loài markgrafi dùng để vinh danh Richard Markgraf, người đã khám phá ra mẫu vật này vào đầu thế kỷ XX. Tameryraptor có thể dài đến 10m.

3. DZHARACURSOR BISSEKTENSIS

Dzharacursor bissektensis là một loài khủng long chân thú thuộc họ Ornithomimidae có niên đại Phấn Trắng muộn (khoảng 90 triệu năm trước), với hóa thạch được tìm thấy trong Hệ tầng Bissekty, Uzbekistan.

Mẫu định danh của Dzharacursor là xương đùi của một cá thể chưa trưởng thành, nhưng vào năm 1995, nhà cổ sinh vật học L. A. Nesov đã mô tả và gán mẫu vật này vào một chi đã có trước đó là Archaeornithomimus. Đến năm 2025, qua quá trình nghiên cứu lại mẫu vật, các nhà cổ sinh vật học Alexander Averianov và Han Sues đã gán chúng qua một chi và loài mới thành lập là Dzharacursor bissektensis. Trong đó tên chi kết hợp giữa Dzharakuduk, địa điểm nơi hóa thạch được phát hiện và "cursor", từ Latin dùng để chỉ các loài vật chạy nhanh. Tên loài bissektensis đề cập đến Hệ tầng Bissekty.

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Với cấu trúc cơ thể và chân giống đà điểu, những loài khủng long thuộc họ Ornithomimidae như Dzharacursor được đánh giá là các vận động viên điền kinh hàng đầu của Thời đại Khủng long.

4. MEXIDRACON LONGIMANUS

Mexidracon longimanus là một loài khủng long họ Ornithomimidae có niên đại Phấn Trắng muộn (~72,5 triệu năm trước) với hóa thạch được tìm thấy từ Thành hệ Cerro del Pueblo, bang Coahuila, Mexico.

Mẫu định danh của Mexidracon là một bộ xương rời rạc, trong đó có các đốt sống lưng, đốt sống chậu và đốt sống đuôi. Ngoài ra còn có vòm mạch máu, chi trước bên trái không nguyên vẹn, một phần đai chậu và các xương chi sau...

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Năm 2025, nhà cổ sinh vật học Serrano-Brañas cùng các cộng sự đã thành lập chi/loài mới Mexidracon longimanus để mô tả các mẫu vật này. Tên chi Mexidracon có nghĩa là "rồng Mexico", trong khi tên loài longimanus có nghĩa là "bàn tay dài", đề cập đến bàn tay dài đặc biệt của loài khủng long này. Có thể bàn tay này giúp chúng thu thập thực vật hiệu quả hơn giống như Deinocheirus hay Therizinosaurus.

5. XINGXIULONG YUEORUM

Nếu bạn hỏi tôi đâu là loài khủng long có cái tên gây chú ý nhất trong 3 tháng đầu năm 2025, tôi sẽ không ngần ngại trả lời đó chính là "Tinh tú long".

Đây là một loài khủng long có danh pháp khoa học là Xingxiulong yueorum, với tên chi bắt nguồn từ địa danh cầu Tinh Tú ở Lộc Phong, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, còn tên loài dùng để vinh danh anh em nhà họ Dư, những người đã có công lớn trong việc khai quật và xử lý các hóa thạch khủng long ở huyện Lộc Phong. 

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Đây đã loài thứ hai trong chi Xingxiulong được phát hiện, sau Xingxiulong chengi. Trong 2 loài thì Xingxiulong yueorum lớn hơn, với chiều dài khi trưởng thành đạt từ 8-10m. Chúng là những con khủng long dạng chân thằn lằn, tiền thân của khủng long sauropod sau này, nhưng kích thước nhỏ hơn và vẫn đi bằng hai chân là chính.

6 VÀ 7. URIASH KADICI VÀ PETRUSTITAN HUNGARICUS

Châu Âu từng là một quần đảo khổng lồ vào thời điểm 70 triệu năm trước, trong đó có một hòn đảo lớn được gọi là Hateg, nằm trong đại dương cổ đại Tethys. Quần thể khủng long ở đây khá đa dạng với nhiều loài khủng long bị thu nhỏ so với các tổ tiên và họ hàng sống trên lục địa của chúng bởi hiệu ứng đảo.

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Tuy nhiên, các nhà cổ sinh vật học đã có một phát hiện thú vị khi tìm thấy một gã khổng lồ giữa quần thể khủng long bị thu nhỏ do hiệu ứng đảo, đó là Uriahs kadici, với khối lượng cơ thể ước tính từ 5 đến 8 tấn và chiều dài cơ thể gần 12 mét. Đây là loài khủng long hộ pháp lớn nhất được biết đến từ bồn địa Hațeg, vượt qua hầu hết các loài khủng long hộ pháp khác ở châu Âu vào cuối Kỷ Phấn trắng.

Nhóm nghiên cứu cho rằng sự khác biệt về kích thước cơ thể này có thể là bằng chứng cho thấy các loài có kích thước lớn đã được miễn trừ về mặt sinh thái khỏi quá trình giảm kích thước cơ thể do sự cạnh tranh từ các loài khủng long hộ pháp có kích thước nhỏ, hoặc sự thu nhỏ đã xảy ra sớm hơn trong nhiều dòng dõi và các loài khủng long hộ pháp có kích thước nhỏ trên đảo Hațeg là hậu duệ của những tổ tiên đã bị thu nhỏ trước đó.

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Bên cạnh Uriash kadici, nhóm nghiên cứu cũng thành lập một loài mới là Petrustitan hungaricus dựa trên cơ sở loài cũ Magyarosaurus hungaricus. Chúng chỉ dài khoảng 6m mà thôi, dù trong tên có chữ "titan".

8. CHADITITAN CALVOI

Chadititan calvoi là một loài khủng long hộ pháp (Titanosauria) có niên đại Phấn Trắng muộn, với hóa thạch được khai quật từ Thành hệ Analecto ở Argentina. 

Tên chi Chadititan là sự kết hợp giữa từ "chadi" trong thổ ngữ Mapuche ở Argentina, có nghĩa là "muối", với từ "titan" trong tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là "sinh vật khổng lồ". Tên loài calvoi dùng để vinh danh nhà cổ sinh vật học Jorge O. Calvo, người đã thành lập nhóm danh pháp Rinconsauria mà Chadititan là một thành viên.

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Chadititan có niên đại 83-74,5 triệu năm trước. Cũng giống như Petrustitan, nó có kích thước khá nhỏ so với các khủng long hộ pháp nổi tiếng như Argentinosaurus, Patagotitan khi chi dài khoảng 6,7m, có thể nằm trong top những khủng long sauropod nhỏ nhất từng biết.

9 VÀ 10. HUADANOSAURUS SINENSIS VÀ SINOSAUROPTERYX LINGYUANENSIS

Huadanosaurus sinensis là một loài khủng long thuộc họ Sinosauropterygidae có niên đại Phấn Trắng sớm, với hóa thạch được khai quật từ Thành hệ Nghĩa Huyện, Trung Quốc. 

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Mẫu định danh của Huadanosaurus - ký số IVPP V14202 - được khám phá từ bãi Đại Vương Trang Tử, một phần của Thành hệ Nghĩa Huyện tại huyện Lăng Nguyên, tỉnh Liêu Ninh. Mẫu vật bao gồm một bộ xương gần như hoàn chỉnh được bảo quản trên một phiến đá, thiếu chân và phần cuối đuôi. Có những cấu trúc dạng sợi giống long vũ được bảo quản xung quanh đuôi. Trước khi được mô tả, mẫu vật này được gán cho chi liên quan là Sinosauropteryx.

Tên chi, Huadanosaurus là sự kết hợp giữa "huadan", tức "hoa đản" — một từ tiếng Trung chỉ ngày sinh của một người hoặc tổ chức lớn — với "sauros" trong tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là "thằn lằn". Cái tên này nhằm tôn vinh kỷ niệm 70 năm thành lập Phân ban Học thuật của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CASAD). Tên loài sinensis bắt nguồn từ "sina" trong tiếng Latin, có nghĩa là Trung Quốc.

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Trong khi đó, Sinosauropteryx lingyuanensis là loài thứ hai trong chi Sinosauropteryx, sau Sinosauropteryx prima được mô tả vào năm 1996. Loài này được mô tả từ một mẫu vật duy nhất được tìm thấy tại huyện Lăng Nguyên, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc.

11. DUONYCHUS TSOGTBATAARI

Duonychus tsogtbaatari là một loài khủng long ăn thực vật thuộc họ Therizinosauridae sống cách đây khoảng 90 triệu năm. Với chỉ hai ngón tay trên mỗi bàn tay, có lẽ chúng sử dụng móng vuốt để nắm lấy cành cây và kéo lá về phía miệng. 

Tranh minh họa của cisiopurple / Deviant Art.

Chúng là một họ hàng của Therizinosaurus, nhưng trong khi Therizinosaurus cùng các loài trong họ có bàn tay ba ngón thì Duonychus chỉ có bàn tay hai ngón, với các móng vuốt khổng lồ dài gần 30cm, được bảo tồn với lớp vỏ keratin, chất liệu tương tự như móng tay của con người. Đây là một phát hiện hiếm hoi vì keratin thường không hóa thạch. 

Tên chi Duonychus có nghĩa là hai ngón tay, trong khi tên loài tsogtbataari dùng dể vinh danh nhà cổ sinh vật học người Mông Cổ Khishigjav Tsogtbaatar.

Và đó chính là 11 cái tên khủng long mới trong 3 tháng đầu năm 2025. Vẫn sẽ còn nhiều cái tên nữa được công bố trong những tháng tiếp theo. Các bạn cùng đón xem nhé!

Đăng nhận xét

0 Nhận xét